Yếu tố định lương tài sản đối với tội trộm cắp tài sản
Trộm cắp tài sản được quy định tại điều 138 Bộ luật hình sự (BLHS) năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 và được hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25/12/2001 của Tòa án nhân dân tố cao, Viện Kiểm sát nhân dân tố cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp về việc hướng d...
Đã lưu trong:
Tác giả chính: | |
---|---|
Định dạng: | 2014 |
Ngôn ngữ: | vie |
Được phát hành: |
Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao
2014
|
Những chủ đề: | |
Truy cập trực tuyến: | http://hdl.handle.net/11742/31133 |
Các nhãn: |
Thêm thẻ
Không có thẻ, Là người đầu tiên thẻ bản ghi này!
|
Tóm tắt: | Trộm cắp tài sản được quy định tại điều 138 Bộ luật hình sự (BLHS) năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 và được hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25/12/2001 của Tòa án nhân dân tố cao, Viện Kiểm sát nhân dân tố cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định tại chương XIV "các tội phạm sở hữu" của BLHS. Trong phạm vi bài viết này, tác giả đề cập tới vướng mắc trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự (TNHS) đối với hai trường hợp liên quan tới định lượng giá trị tài sản chiến đoạt của tất cả các lần thực hiện hành vi trộm cắp (Chưa bị phát hiện xả lý trước đó): Định lượng giá trị tài sản trộm cắp để làm căn cứ định khung hình phạt trong trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội nhiều lần; định lượng giá trị tài sản trộm cắp để làm căn cứ định khung hình phạt trong trường hợp người thực hiện nhiều lần hành vi trộm cắp tài sản mà trong đó có lần thực hiện hành vi trộm cắp có giá trị bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu TNHS (hành vi phạm tội trộm cắp), có lần thực hiện hành vi trộm cắp có giá trị dưới mức tối thiểu để truy cứu TNHS (không thuộc các trường hợp khác để truy cứu TNHS) |
---|