Hoàn thiện pháp luật về ủy quyền lập pháp ở Việt Nam
Hiến pháp năm 2013 khẳng định “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất” và phân công giao cho “Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước”. Tiếp đó...
Đã lưu trong:
Tác giả chính: | |
---|---|
Định dạng: | Chuyên đề nghiên cứu |
Ngôn ngữ: | Vietnamese |
Được phát hành: |
2014
|
Những chủ đề: | |
Truy cập trực tuyến: | http://hdl.handle.net/11742/38189 |
Các nhãn: |
Thêm thẻ
Không có thẻ, Là người đầu tiên thẻ bản ghi này!
|
Tóm tắt: | Hiến pháp năm 2013 khẳng định “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất” và phân công giao cho “Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước”. Tiếp đó, Hiến pháp năm 2013 quy định Quốc hội có nhiệm vụ và quyền hạn “làm luật và sửa đổi luật”.
Như vậy, có thể khẳng định rằng, giống như nghị viện ở hầu hết các nước trên thế giới, Quốc hội nước ta được giao thực hiện quyền lập pháp. Để thực hiện quyền này,
Quốc hội không chỉ có quyền ban hành các đạo luật thông qua hoạt động “làm luật và sửa đổi luật” mà còn có quyền ủy quyền lập pháp. Như vậy, khái niệm “quyền lập
pháp” trong cụm từ “Quốc hội thực hiện quyền lập pháp” phải được hiểu theo nghĩa rộng, theo đó Quốc hội là cơ quan không chỉ có quyền đưa ra các quy phạm pháp luật có hiệu lực bắt buộc mọi người thực hiện dưới hình thức các đạo luật mà còn thực hiện quyền lập pháp thông qua việc ủy quyền lập pháp cho các cơ quan nhà nước khác ban hành văn bản quy phạm pháp luật, và kiểm soát hoạt động này. |
---|